Osho
- Nhận biết
Phần II:
Nhiều bệnh, một đơn thuốc
Bạn đã cố gắng không
giận dữ, bạn đã quyết định nhiều lần thế, nhưng nó vẫn xảy ra. Bạn đã thử không
tham lam, nhưng bạn cứ rơi đi rơi lại vào cái bẫy này. Bạn đã cố gắng đủ mọi
thứ để thay đổi bản thân mình, nhưng chẳng cái gì dường như xảy ra. Bạn vẫn còn
như cũ.
Và ở đây tôi đang nói
rằng có chìa khoá đơn giản - nhận biết. Bạn không thể tin được vào điều đó. Làm
sao nhận biết, chỉ mỗi nhận biết, lại có ích khi chẳng cái gì khác đã từng có
ích gì? Chìa khoá bao giờ cũng rất nhỏ; chìa khoá không phải là thứ lớn. Chìa
khoá nhỏ có thể mở chiếc khoá lớn.
Khi mọi người hỏi
Phật, "Chúng tôi phải làm gì để không giận dữ, hay chúng tôi phải làm gì
để không tham lam, hay chúng tôi phải làm gì để không bị ám ảnh quá nhiều với
dục và thức ăn?" câu trả lời của ông ấy bao giờ cũng là một: nhận biết.
Đem nhận biết vào cuộc sống của bạn đi.
Đệ tử của ông ấy
Ananda, nghe đi nghe lại với mọi loại người - các vấn đề khác nhau, nhưng đơn
thuốc của thầy chữa vẫn còn là một - trở nên phân vân. Ông ấy nói, "Thầy
có vấn đề gì vậy? Họ đem tới các loại bệnh tật khác nhau - ai đó đem tới tham
lam và ai đó đem tới dục và ai đó thì thức ăn và ai đó thì cái gì đó khác -
nhưng đơn thuốc của thầy vẫn còn như cũ!"
Và Phật nói,
"Bệnh tật là khác nhau - cũng như mọi người có thể mơ các giấc mơ khác
nhau."
Nếu hai nghìn người
rơi vào giấc ngủ, họ sẽ có hai nghìn giấc mơ. Nhưng nếu bạn tới tôi và hỏi cách
gạt bỏ giấc mơ này, thuốc sẽ vẫn là một thôi: tỉnh dậy! Nó sẽ không khác; đơn
thuốc sẽ là một. Bạn có thể gọi nó là nhận biết, bạn có thể gọi nó là chứng
kiến, bạn có thể gọi nó là nhớ, bạn có thể gọi nó là thiền - đây là những cái
tên khác nhau cho cùng một thuốc.
Chương 5: Nhà
phân tích và nhân chứng
Cách tiếp
cận phương Tây là nghĩ về vấn đề, tìm ra nguyên nhân của vấn đề, đi vào lịch sử
của vấn đề, vào quá khứ của vấn đề, nhổ bật rễ vấn đề từ chính lúc ban đầu. Hoá
giải tâm trí, hay huấn luyện lại tâm trí, huấn luyện lại thân thể, lấy ra mọi
dấu ấn đã được để lại trong não - đây là cách tiếp cận phương Tây. Việc phân
tâm đi vào trong kí ức; nó làm việc ở đó. Nó đi vào trong thời thơ ấu của bạn,
đi vào quá khứ của bạn; nó đi về sau. Nó tìm ra vấn đề đã nảy sinh từ đâu - có
thể năm mươi năm trước, khi bạn còn là đứa trẻ vấn đề đã nảy sinh trong mối
quan hệ của bạn với mẹ bạn, thế rồi nhà phân tâm sẽ đi lùi lại.
Năm mươi
năm của lịch sử! Đó là câu chuyện dài dòng, lê thê. Và thậm chí thế nó cũng
chẳng ích gì mấy bởi vì có hàng triệu vấn đề; đó không phải là chỉ là một câu
hỏi của một vấn đề. Bạn có thể đi vào lịch sử của một vấn đề; bạn có thể nhìn
vào trong tiểu sử của mình và tìm ra nguyên nhân. Có thể bạn xoá đi một vấn đề,
nhưng có cả triệu vấn đề. Nếu bạn bắt đầu đi vào từng vấn để giải quyết các vấn
đề của một kiếp sống, bạn sẽ cần cả triệu kiếp! Để tôi nhắc lại điều đó: để
giải quyết các vấn đề của một kiếp sống bạn sẽ phải được sinh đi sinh lại, hàng
triệu lần. Điều này gần như phi thực tế. Điều này không thể nào làm được. Và
tất cả những triệu kiếp đó khi bạn sẽ giải quyết các vấn đề của kiếp sống này,
những kiếp sống đó sẽ tạo ra vấn đề riêng của nó... và cứ thế tiếp diễn mãi.
Bạn sẽ bị kéo lê ngày một nhiều vào các vấn đề. Điều này là ngớ ngẩn!
Bây giờ,
cùng cách tiếp cận phân tâm đó đã đi tới thân thể: phương pháp Rolfing, năng
lượng sinh học, và các phương pháp khác cố gắng khử bỏ đi những dấu ấn trên
thân thể, trong cơ bắp. Lần nữa bạn phải đi vào trong lịch sử của thân thể.
Nhưng một điều chắc chắn về cả hai cách tiếp cận này, vốn làm việc trên cùng
hình mẫu logic - là vấn đề tới từ quá khứ, cho nên bằng cách nào đó nó phải
được giải quyết trong quá khứ.
Tâm trí
con người bao giờ cũng cố gắng làm hai điều không thể được. Một là sửa lại quá
khứ - điều không thể được làm. Quá khứ đã xảy ra. Bạn thực sự không thể đi vào
quá khứ được. Khi bạn nghĩ về việc đi vào quá khứ, nhiều nhất bạn đi vào kí ức
của nó; nó không phải là quá khứ thật, nó chỉ là kí ức. Quá khứ không còn nữa,
cho nên bạn không thể sửa lại nó được. Đây là một trong những mục đích không
thể được của nhân loại, và con người đã chịu đựng rất nhiều bởi vì nó. Bạn muốn
hoàn tác lại quá khứ - làm sao bạn có thể hoàn tác nó được? Quá khứ là tuyệt
đối. Quá khứ nghĩa là tất cả tiềm năng của một việc đã kết thúc rồi; nó đã trở
thành thực tế. Bây giờ không còn tiềm năng nào để sửa lại nó, để hoàn tác nó,
để làm lại nó. Bạn không thể làm gì với quá khứ được.
Và ý
tưởng không thể được thứ hai bao giờ cũng chi phối tâm trí con người là thiết
lập tương lai - cái lần nữa, cũng không thể được làm. Tương lai có nghĩa là cái
còn chưa có; bạn không thể thiết lập nó được. Tương lai vẫn còn không được
thiết lập, tương lai vẫn còn để mở.
Tương lai
là tiềm năng thuần khiết; chừng nào nó còn chưa xảy ra, bạn không thể chắc chắn
được về nó. Quá khứ là thực tại thuần khiết; nó đã xảy ra rồi. Bây giờ không
cái gì có thể được làm về nó. Giữa hai điều này, con người đứng trong hiện tại
bao giờ cũng nghĩ về những điều không thể được. Con người muốn làm mọi thứ chắc
chắn về tương lai, về ngày mai - điều không thể được làm. Để cho điều đó chìm
vào trong trái tim bạn sâu sắc nhất có thể được: nó không thể được thực hiện.
Đừng phí hoài những khoảnh khắc hiện tại của bạn cố gắng để làm cho tương lai
thành chắc chắn. Tương lai là không chắc chắn; đó là chính tính chất của tương
lai. Và đừng phí hoài thời gian của bạn để nhìn lại sau. Quá khứ đã xảy ra rồi,
nó là hiện tượng chết. Không cái gì có thể được làm về nó. Và nhiều nhất điều
bạn có thể làm là tái diễn giải nó, có vậy thôi. Đó là điều phân tâm đang làm:
tái diễn giải nó. Tái diễn giải có thể được thực hiện, nhưng quá khứ vẫn còn
như cũ.
Phân tâm
và chiêm tinh - chiêm tinh cố gắng bằng cách nào đó làm cho tương lai chắc
chắn, và phân tâm cố gắng làm lại quá khứ. Cả hai đều không là khoa học. Cả hai
đều là những điều không thể được, nhưng cả hai đều có hàng triệu tín đồ - bởi
vì con người thích điều đó theo cách đó! Con người muốn chắc chắn về tương lai,
cho nên con người cứ đi tới nhà chiêm tinh, con người tra cứu Dịch lí, con
người đi tới người bói bài, và có cả nghìn lẻ một cách để lừa người ta, để gạt
người ta. Và thế rồi có những người nói họ có thể thay đổi được quá khứ - con
người tư vấn cả họ nữa.
Một khi
hai điều này được vứt bỏ, bạn trở nên tự do với mọi loại ngu xuẩn. Thế thì bạn
không đi tới nhà phân tâm và bạn không đi tới nhà chiêm tinh. Thế thì bạn biết
quá khứ đã kết thúc rồi - bạn cũng sẽ được kết thúc với nó. Và tương lai đã
không xảy ra. Bất kì khi nào nó xảy ra, chúng ta sẽ thấy - chẳng cái gì có thể
được làm về nó ngay bây giờ. Bạn chỉ có thể phá huỷ khoảnh khắc hiện tại, cái
là khoảnh khắc duy nhất sẵn có, thực.
Phương
Tây đã liên tục nhìn vào vấn đề, cách giải quyết chúng. Phương Tây coi vấn đề
là nghiêm chỉnh. Và khi bạn đi vào trong logic nào đó, cho các tiền đề, logic
này có vẻ hoàn hảo.
Tôi mới
đọc một giai thoại:
Một triết
gia lớn và là nhà toán học nổi tiếng thế giới đang ở trong một chiếc máy bay.
Ông ta ngồi trong chỗ của mình và nghĩ về những vấn đề toán học lớn lao, thì
bỗng nhiên một thông báo đưa tới từ cơ trưởng: "Tôi rất tiếc, sẽ có hơi
chậm trễ. Động cơ số một đã bị hỏng và chúng ta hiện đang bay với ba động
cơ."
Mười phút
sau lại một thông báo nữa, "Tôi sợ là sẽ có chậm trễ thêm - các động cơ số
hai và ba đã bị hỏng và chỉ số bốn còn lại."
Thế là
triết gia này quay sang anh bạn ngồi bên cạnh mình và nói, "May đấy! Nếu
động cơ kia bị hỏng nốt thì chúng ta sẽ ở trên cao này cả đêm mất!"
Khi bạn
nghĩ lâu theo một tuyến nào đó, chính chiều hướng của nó làm cho những điều nào
đó thành có thể - những điều ngớ ngẩn cũng là có thể. Một khi bạn đã coi vấn đề
con người là nghiêm chỉnh, một khi bạn bắt đầu nghĩ về con người như vấn đề,
bạn đã chấp nhận tiền đề nào đó, bạn đã lấy bước đầu tiên sai đi. Bây giờ bạn
có thể đi theo hướng đó, và bạn có thể cứ đi tiếp mãi. Bây giờ có một số lượng
sách lớn trong văn đàn đã được viết ra về hiện tượng tâm trí, phân tâm; hàng
triệu bài báo đã được viết ra, rồi các chuyên luận và sách. Một khi Freud mở ra
cánh cửa của logic nào đó, nó chi phối cả thế kỉ.
Phương
Đông có cái nhìn hoàn toàn khác. Trước hết, nó nói không vấn đề nào là nghiêm
chỉnh cả. Khoảnh khắc bạn nói không vấn đề nào là nghiêm chỉnh, vấn đề gần như
99 phần trăm chết. Toàn thể cái nhìn của bạn thay đổi về nó. Điều thứ hai phương
Đông nói là ở chỗ vấn đề có đó bởi vì bạn bị đồng nhất với nó. Nó chẳng liên
quan gì tới quá khứ, chẳng liên quan gì tới lịch sử của nó. Bạn bị đồng nhất
với nó - đó là điều thực. Và đó là chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề.
Chẳng
hạn, bạn là người giận dữ. Nếu bạn đi tới nhà phân tâm, ông ấy sẽ nói, "Đi
vào quá khứ đi... làm sao giận dữ này nảy sinh? Trong tình huống nào nó đã trở
nên ngày một được ước định và in dấu vào tâm trí bạn? Chúng ta sẽ phải tẩy sạch
những dấu ấn đó; chúng ta sẽ phảo chùi sạch chúng đi. Chúng ta phải lau sạch
quá khứ của bạn hoàn toàn."
Nếu bạn
đi tới nhà huyền môn phương Đông, ông ấy sẽ nói, "Bạn nghĩ rằng bạn là cơn
giận, bạn cảm thấy bị đồng nhất với cơn giận - đó là chỗ mọi sự đi sai. Lần sau
cơn giận xảy ra, bạn chỉ là người quan sát, bạn chỉ là nhân chứng. Đừng bị đồng
nhất với cơn giận. Đừng nói, 'Tôi là cơn giận.' Đừng nói, 'Tôi đang giận.' Thấy
nó xảy ra cứ dường như nó đang xảy ra trên màn hình ti vi. Nhìn vào bản thân
bạn cứ dường như bạn đang nhìn vào ai đó khác."
Bạn là
tâm thức thuần khiết. Khi đám mây của giận dữ tới quanh bạn, quan sát nó - và
vẫn còn tỉnh táo để cho bạn không bị đồng nhất. Toàn thể sự việc là làm sao
không trở nên bị đồng nhất với vấn đề. Một khi bạn đã học được điều đó... thế
thì không có vấn đề về việc có "nhiều vấn đề thế" - bởi vì chiếc chìa
khoá, cùng chiếc chìa khoá đó sẽ mở mọi ổ khoá. Nó là vậy với giận dữ, nó là
vậy với tham lam, nó là vậy với dục. Nó là vậy với mọi thứ khác mà tâm trí có
khả năng với tới.
Phương
Đông nói, không bị đồng nhất. Nhớ lấy - đó là điều George Gurdjieff ngụ ý khi
ông ấy nói về "tự nhớ". Nhớ rằng bạn là nhân chứng, lưu tâm - đó là
điều Phật nói. Tỉnh táo rằng đám mây đang trôi qua - có thể đám mây tới từ quá
khứ, nhưng đó là vô nghĩa. Nó phải có quá khứ nào đó, nó không thể tới chỉ từ
trời xanh. Nó phải tới từ trình tự nào đó của các biến cố - nhưng điều đó là
không liên quan. Tại sao lại bận tâm về nó? Ngay bây giờ, chính khoảnh khắc
này, bạn có thể trở thành được tách rời khỏi nó. Bạn có thể cắt bản thân mình ra
khỏi nó, cây cầu có thể bị phá vỡ ngay bây giờ - và nó có thể bị phá vỡ chỉ
trong bây giờ.
Đi vào
quá khứ sẽ chẳng ích gì. Ba mươi năm trước, cơn giận đã nảy sinh và bạn đã bị
đồng nhất với nó vào ngày đó. Bây giờ, bạn không thể không bị đồng nhất từ quá khứ
đó - nó không còn đó nữa! Nhưng bạn có thể không bị đồng nhất khoảnh khắc này,
chính khoảnh khắc này - và thế rồi toàn thể chuỗi giận dữ của quá khứ của bạn
không còn là một phần của bạn. Bạn sẽ không còn phải quay lại và hoàn tác bất
kì cái gì cha mẹ bạn và xã hội bạn và các tu sĩ và nhà thờ đã làm - điều đó sẽ
là sự lãng phí cực kì thời gian hiện tại quí giá. Ngay chỗ đầu tiên nó đã phá
huỷ nhiều năm; bây giờ, lần nữa, nó sẽ phá huỷ khoảnh khắc hiện tại của bạn.
Bạn đơn giản có thể vứt bỏ nó, cũng như con rắn tuột ra khỏi bộ da cũ của nó.
Quá khứ
và việc ước định của nó quả tồn tại - nhưng chúng tồn tại hoặc trong thân thể
hoặc trong não; chúng không tồn tại trong tâm thức bạn bởi vì tâm thức không
thể bị ước định. Tâm thức vẫn còn tự do - tự do là phẩm chất bên trong nhất của
nó, tự do là bản tính của nó. Bạn có thể nhìn - nhiều năm kìm nén thế, nhiều
năm giáo dục thế. Trong khoảnh khắc này khi bạn nhìn vào nó, tâm thức này không
còn bị đồng nhất nữa; bằng không, ai sẽ nhận biết? Nếu bạn mà thực sựtrở nên bị
kìm nén, thế thì ai sẽ nhận biết? Thế thì sẽ không có khả năng nào cho việc trở
nên nhận biết.
Nếu bạn
có thể nói, "Tôi đã mất hai mươi mốt năm trong hệ thống giáo dục gàn
dở," một điều là chắc chắn: bạn còn chưa gàn dở đâu. Hệ thống đã thất bại,
nó không có tác dụng. Bạn không gàn dở, do đó bạn có thể thấy toàn thể hệ thống
gàn dở. Người điên không thể thấy rằng mình điên. Chỉ người lành mạnh mới có
thể thấy rằng đây là điên khùng. Để thấy cái điên là điên, cần có lành mạnh.
Hai mươi mốt năm đó của hệ thống gàn dở đã thất bại; tất cả những ước định kìm
nén đó đã thất bại. Nó không thể thành công thực sự được - nó chỉ thành công
theo tỉ lệ mà bạn bị đồng nhất với nó. Bất kì khoảnh khắc nào bạn cũng có thể
đứng tách ra... nó có đó, tôi không nói nó không có đó: nhưng nó không còn là
một phần của tâm thức bạn.
Đây là
cái đẹp của tâm thức - tâm thức có thể trượt ra khỏi bất kì cái gì. Không có
rào chắn cho nó, không biên giới cho nó. Mới khoảnh khắc trước bạn còn là người
Anh - hiểu cái vô nghĩa của chủ nghĩa dân tộc, một giây sau bạn không còn là
người Anh nữa. Tôi không nói rằng da trắng của bạn sẽ thay đổi; nó sẽ vẫn còn
trắng chứ - nhưng bạn không còn bị đồng nhất với da trắng nữa; bạn không còn
chống lại người da đen. Bạn thấy cái ngu xuẩn của nó. Tôi không nói rằng chỉ
bởi việc thấy rằng bạn không còn là người Anh nữa mà bạn sẽ quên đi tiếng Anh,
không. Nó sẽ vẫn có đó trong kí ức của bạn, nhưng tâm thức của bạn đã trượt ra,
tâm thức bạn đang đứng trên núi nhìn vào thung lũng - bây giờ, người Anh này chết
đi trong thung lũng và bạn đang đứng trên núi, xa xôi, không gắn bó, không xúc
động.
Toàn thể
phương pháp luận phương Đông có thể được qui lại một từ: chứng kiến. Và toàn
thể phương pháp luận phương Tây có thể qui lại thành một điều: phân tích. Phân
tích, bạn đi vòng tròn. Chứng kiến, bạn đơn giản thoát ra khỏi vòng tròn.
Phân tích
là cái vòng luẩn quẩn. Nếu bạn thực sự đi vào phân tích, bạn sẽ đơn giản bị
phân vân - làm sao nó có thể được? Nếu, chẳng hạn, bạn cố gắng đi vào quá khứ,
bạn sẽ dừng ở đâu? Đích xác ở đâu? Nếu bạn đi vào quá khứ, dục tính của bạn bắt
đầu ở đâu? Khi bạn mười bốn tuổi chăng? Nhưng thế thì nó tới từ trời xanh à? Nó
phải đã sẵn sàng trong thân thể, vậy khi nào? Khi bạn được sinh ra chăng? Nhưng
thế thì khi bạn ở trong bụng mẹ, nó không sẵn sàng sao? Thế thì khi nào, khoảnh
khắc bạn được thụ thai sao? Nhưng trước đó, một nửa dục tính của bạn đã chín
muồi trong trứng mẹ bạn và một nửa của dục tính đã chín muồi trong tinh trùng
bố bạn. Bây giờ cứ tiếp tục đi... bạn sẽ chấm dứt ở đâu? Bạn sẽ phải đi tới
Adam và Eve! Và ngay cả thế thì nó cũng không chấm dứt: bạn sẽ phải đi tới bản
thân Thượng đế Cha - sao ngay chỗ đầu tiên ông ấy đã tạo ra Adam?...
Phân tích
bao giờ cũng còn lại một nửa, cho nên phân tích chưa bao giờ giúp được thực sự
cho bất kì ai. Nó không thể giúp được. Nó làm cho bạn được điều chỉnh chút ít
với thực tại của mình, có vậy thôi. Nó là một loại điều chỉnh, nó giúp bạn đạt
tới thêm chút ít hiểu biết về vấn đề của bạn, căn nguyên của chúng, cách chúng
đã nảy sinh. Và chút ít hiểu biết trí tuệ đó giúp bạn điều chỉnh với xã hội tốt
hơn, nhưng bạn vẫn còn là cùng con người cũ. Không có biến đổi qua nó, không có
thay đổi triệt để qua nó.
Chứng
kiến là cuộc cách mạng. Nó là thay đổi triệt để từ tận gỗc rễ. Nó đem con người
hoàn toàn mới vào trong sự tồn tại, bởi vì nó đem tâm thức bạn ra khỏi mọi ước
định. Ước định có đó trong thân thể và trong tâm trí, nhưng tâm thức vẫn còn
không bị ước định. Nó là thuần khiết, bao giờ cũng thuần khiết. Nó là trinh
nguyên; trinh nguyên của nó không thể bị vi phạm.
Cách tiếp
cận phương Đông là làm cho bạn lưu tâm tới tâm thức trinh nguyên này, sự thuần
khiết này, sự hồn nhiên này. Phương Đông nhấn mạnh vào bầu trời, còn phương Tây
nhấn mạnh vào mây. Mây có căn nguyên; nếu bạn tìm ra chúng từ đâu tới, bạn sẽ
đi tới đại dương, thế rồi tới tia sáng mặt trời và việc bốc hơi của nước, và
mây hình thành... và bạn cũng có thể tiếp tục nữa, nhưng nó sẽ đi theo vòng tròn.
Mây hình thành, thế rồi chúng lại tới, rơi vào tình yêu với cây cối, bắt đầu
lại đổ xuống đất, trở thành sông, đi ra đại dương, bắt đầu bay hơi, lại bốc lên
theo tia sáng mặt trời, trở thành mây, lại rơi xuống đất... Nó cứ thế tiếp
diễn, quay vòng quay vòng. Nó là cái bánh xe. Bạn từ đâu tới vậy? Điều này sẽ
dẫn tới điều khác và bạn sẽ ở trong bánh xe.
Bầu trời
không có căn nguyên. Bầu trời không được tạo ra; nó không được tạo ra bởi bất
kì cái gì. Thực tế, để bất kì cái gì hiện hữu, bầu trời đều được cần tới như
cái phải có, tiên thiên; nó phải tồn tại trước khi bất kì cái gì có thể tồn
tại. Bạn có thể hỏi nhà thần học Ki tô giáo - ông ta nói, "Thượng đế tạo
ra thế giới này." Hỏi ông ấy liệu trước khi Thượng đế tạo ra thế giới thì
có bầu trời nào hay không. Nếu không có bầu trời, Thượng đế thường tồn tại ở
đâu? Ngài phải cần không gian chứ. Nếu không có không gian, ngài đã tạo ra thế
giới ở đâu? Ngài đã đặt thế giới vào đâu? Không gian là phải có chứ, ngay cả để
cho Thượng đế tồn tại. Bạn không thể nói, "Thượng đế tạo ra không
gian." Điều đó sẽ là ngớ ngẩn, bởi vì thế thì ngài sẽ không có không gian
nào để tồn tại. Không gian phải có trước Thượng đế chứ.
Bầu trời
bao giờ cũng có đó. Cách tiếp cận phương Đông là trở nên lưu tâm tới bầu trời.
Cách tiếp cận phương Tây làm cho bạn ngày một tỉnh táo về mây và giúp bạn chút
ít, nhưng nó không làm bạn nhận biết về cốt lõi bên trong nhất của bạn. Chu vi,
vâng, bạn trở nên nhận biết thêm chút ít về chu vi, nhưng không nhận biết về
trung tâm. Và chu vi là cơn xoáy lốc.
Bạn phải
tìm trung tâm của cơn xoáy lốc. Và điều đó xảy ra qua việc chứng kiến.
Chứng
kiến sẽ không thay đổi việc ước định của bạn. Chứng kiến sẽ không thay đổi thân
thể cơ bắp của bạn. Nhưng chứng kiến sẽ cho bạn kinh nghiệm rằng bạn ở bên
ngoài tất cả mọi cơ bắp, mọi ước định. Trong khoảnh khắc đó của tính ở bên
ngoài, trong khoảnh khắc đó của siêu việt, không vấn đề nào tồn tại - không vấn
đề nào cho bạn cả.
Và bây
giờ điều đó là tuỳ ở bạn. Thân thể sẽ vẫn mang cơ bắp, và tâm trí vẫn mang ước
định - bây giờ điều đó là tuỳ bạn thôi. Nếu thỉnh thoảng bạn khao khát về vấn
đề, bạn có thể đi vào thân tâm và có vấn đề và hưởng thú nó. Nếu bạn không muốn
có nó, bạn có thể vẫn còn ở ngoài. Vấn đề sẽ vẫn còn như dấu ấn trong hiện
tượng thân tâm, nhưng bạn sẽ ở xa khỏi nó.
Đó là
cách vị phật vận hành. Bạn dùng kí ức, vị phật cũng dùng kí ức - nhưng ông ấy
không bị đồng nhất với nó. Ông ấy dùng kí ức như cái máy. Chẳng hạn, tôi đang
dùng ngôn ngữ. Khi tôi phải dùng ngôn ngữ, tôi dùng tâm trí và tất cả mọi dấu
ấn, nhưng như một sự liên tục, tôi không phải là tâm trí; nhận biết có đó. Cho
nên tôi vẫn còn là người chủ, tâm trí vẫn còn là người phục vụ. Khi tâm trí
được gọi, nó tới; sự tiện dụng của nó có đó - nhưng nó không thể chi phối được.
Cho nên
vấn đề sẽ tồn tại, nhưng chúng sẽ tồn tại chỉ trong dạng hạt mầm trong thân thể
và tâm trí. Làm sao bạn có thể thay đổi được quá khứ của mình? Bạn đã là người
Cơ đốc giáo trong quá khứ; nếu trong bốn mươi năm bạn đã là người Cơ đốc giáo,
làm sao bạn có thể thay đổi được bốn mươi năm đó và không là người Cơ đốc giáo?
Không, bốn mươi năm đó sẽ vẫn còn như một thời kì là người Cơ đốc giáo - nhưng
bạn có thể trượt ra khỏi nó. Bây giờ bạn biết rằng đó chỉ là sự đồng nhất. Bốn
mươi năm đó không thể bị phá huỷ, và không có nhu cầu phá huỷ chúng. Nếu bạn là
người chủ của ngôi nhà, thì không có nhu cầu. Bạn có thể dùng thậm chí cả bốn
mươi năm đó theo một cách nào đó, theo cách sáng tạo. Ngay cả việc giáo dục gàn
dở cũng có thể được dùng theo cách sáng tạo.
Tất cả
mọi dấu ấn còn lại trong não, trong cơ bắp của thân thể... chúng sẽ có đó,
nhưng như hạt mầm - có đó về tiềm năng. Nếu bạn cảm thấy quá cô đơn và bạn muốn
có vấn đề, bạn có thể có chúng. Nếu bạn cảm thấy quá khổ sở nếu không có khổ
sở, bạn có thể có chúng. Chúng bao giờ cũng sẽ sẵn có, nhưng không có nhu cầu
để có chúng, không có sự cần thiết để có chúng. Nó sẽ là chọn lựa của bạn.
Chứng
kiến là kĩ thuật cho việc định tâm. Chúng ta đã thảo luận về định tâm - con
người có thể sống theo hai cách: người đó có thể sống từ ngoại vi của mình hay
người đó có thể sống từ trung tâm của mình. Ngoại vi thuộc về bản ngã và trung
tâm thuộc về bản thể. Nếu bạn sống từ bản ngã, bạn bao giờ cũng có quan hệ với
người khác. Ngoại vi có quan hệ với người khác.
Bất kì
điều gì bạn làm cũng không là hành động, nó bao giờ cũng là phản ứng - bạn làm
nó trong việc đáp ứng với cái gì đó được làm cho bạn. Từ ngoại vi không có hành
động, mọi thứ đều là phản ứng - không cái gì tới từ trung tâm của bạn cả. Theo
một cách nào đó, bạn chỉ là nô lệ của hoàn cảnh. Bạn không làm điều gì; thay vì
thế, bạn bị ép buộc làm.
Từ trung
tâm, tình huống thay đổi theo chiều đối lập. Từ trung tâm bạn bắt đầu hành
động; lần đầu tiên bạn bắt đầu tồn tại không như quan hệ mà theo quyền riêng
của mình.
Phật đi
qua một làng. Một số người giận dữ, rất chống đối giáo huấn của ông ấy. Họ lăng
mạ ông ấy, họ sỉ nhục ông ấy. Phật nghe một cách im lặng và rồi nói, "Nếu
các ông đã làm xong việc rồi, thế thì cho phép ta đi tiếp. Ta phải tới làng
bên, và họ đang đợi ta. Nếu cái gì đó vẫn còn lại trong tâm trí các ông, thế
thì khi ta trở lại trên con đường này, các ông có thể kết thúc nó."
Họ nói,
"Chúng tôi đã lăng mạ ông, sỉ nhục ông. Ông không định trả lời sao?"
Phật nói,
"Bây giờ ta không bao giờ phản ứng cả. Điều các ông làm là tuỳ các ông
thôi - bây giờ ta không bao giờ phản ứng nữa, các ông không thể buộc ta làm
điều gì đó được. Các ông có thể lăng mạ ta; điều đó là tuỳ ở các ông - ta không
phải là nô lệ. Ta đã trở thành con người tự do. Ta hành động từ trung tâm của
ta, không từ ngoại vi; và việc lăng mạ của các ông chỉ có thể chạm tới ngoại
vi, không tới trung tâm ta. Trung tâm của ta vẫn còn không bị động chạm."
Bạn bị
động chạm không phải bởi vì trung tâm của bạn bị động chạm, mà chỉ bởi vì bạn
không có trung tâm. Bạn chỉ ở ngoại vi, bị đồng nhất với ngoại vi. Ngoại vi
nhất định bị mọi thứ động chạm tới - mọi thứ xảy ra. Nó chính là biên giới của
bạn, cho nên bất kì cái gì xảy ra đều nhất định chạm tới nó, và bạn không có
trung tâm nào. Khoảnh khắc bạn có trung tâm, thế thì bạn có khoảng cách từ bản
thân mình - bạn có khoảng cách với ngoại vi của mình. Ai đó có thể lăng mạ
ngoại vi, nhưng không lăng mạ bạn. Bạn có thể vẫn còn xa cách, tách rời - có
khoảng cách giữa bạn và bản thân mình. Giữa bạn như ngoại vi, và bạn như trung
tâm, có khoảng cách. Và khoảng cách đó không thể bị phá vỡ bởi bất kì ai khác,
bởi vì không ai có thể xuyên vào trung tâm được. Thế giới bên ngoài có thể động
chạm tới bạn chỉ ở ngoại vi.
Cho nên
Phật nói, "Bây giờ ta đã định tâm. Mười năm trước đây điều đó sẽ khác; nếu
các ông lăng mạ ta, thế thì ta đã phản ứng rồi. Nhưng bây giờ ta chỉ hành động
thôi."
Hiểu rõ
phân biệt giữa phản ứng và hành động. Bạn yêu ai đó bởi vì ai đó yêu bạn. Phật
cũng yêu bạn, không phải bởi vì bạn yêu ông ấy; điều đó là không liên quan.
Việc bạn yêu ông ấy hay ghét ông ấy là không liên quan - ông ấy yêu bạn bởi vì
đó là hành động, không phải là phản ứng. Hành động tới từ bạn, còn phản ứng bị
áp đặt lên bạn. Định tâm nghĩa là bây giờ bạn đã bắt đầu hành động.
Một điểm
khác cần ghi nhớ: khi bạn hành động, hành động bao giờ cũng toàn bộ. Khi bạn
phản ứng, nó không bao giờ có thể là toàn bộ được. Nó bao giờ cũng bộ phận,
mảnh mẩu, bởi vì khi tôi hành động từ ngoại vi của mình - tức là, khi tôi phản
ứng - nó không thể là toàn bộ được bởi vì tôi không tham dự vào trong đó, thực
sự. Chỉ ngoại vi của tôi là tham dự vào, yêu của bạn không thể là toàn bộ được
- nó bao giờ cũng bộ phận. Và điều đó có nghĩa nhiều, bởi vì nếu yêu mang tính
bộ phận, thế thì không gian còn lại sẽ bị lấp đầy bởi ghét. Nếu lòng tốt của
bạn mà có tính bộ phận, thế thì ai sẽ lấp đầy không gian còn lại? Nếu Thượng đế
của bạn mang tính bộ phận, thế thì bạn sẽ cần quỉ để lấp đầy không gian còn
lại.
Điều đó
nghĩa là hành động bộ phận nhất định sẽ mâu thuẫn, trong xung đột với bản thân
nó. Tâm lí học hiện đại nói bạn vừa yêu vừa ghét đồng thời. Tâm trí bạn là động
vật lưỡng cư, mâu thuẫn - với cùng đối tượng bạn có quan hệ qua yêu và qua
ghét. Và nếu yêu và ghét cả hai đều có đó, thế thì sẽ có lẫn lộn - và lẫn lộn
độc hại. Lòng tốt của bạn bị trộn lẫn với tàn ác và từ thiện của bạn là trộm
cắp và lời cầu nguyện của bạn trở thành một loại bạo hành. Cho dù bạn có cố
gắng là thánh nhân ở ngoại vi, phẩm thánh của bạn nhất định đượm màu tội lỗi. Ở
ngoại vi, mọi thứ đều sẽ là tự mâu thuẫn.
Chỉ khi
bạn hành động từ trung tâm thì hành động của bạn mới toàn bộ. Và khi hành động
đó là toàn bộ, nó có cái đẹp riêng của nó. Khi hành động là toàn bộ, nó là từ
khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Khi hành động là toàn bộ, bạn không mang kí ức -
bạn không cần! Khi hành động là bộ phận, nó là thứ lơ lửng.
Bạn ăn
cái gì đó - nếu việc ăn mang tính bộ phận, thế thì khi việc ăn thực tế kết
thúc, bạn sẽ tiếp tục ăn trong tâm trí. Nó sẽ vẫn còn lơ lửng đó. Chỉ cái toàn
bộ mới có thể có kết thúc và có thể có bắt đầu. Cái bộ phận chỉ là chuỗi liên
tục không bắt đầu và không kết thúc. Bạn đang ở nhà mình, và bạn đã mang cửa
hàng và bãi chợ cùng mình. Bạn ở trong cửa hàng, và bạn đang mang nhà mình và
chuyện gia đình của mình vào. Bạn không bao giờ - bạn có thể không bao giờ -
mang tính toàn bộ trong nó dù chỉ một khoảnh khắc, nhiều thứ được mang cùng
liên tục thế. Đây là sự nặng nề, sự nặng nề căng thẳng đè lên tâm trí, lên trái
tim.
Hành động
toàn bộ có bắt đầu và có kết thúc. Nó là nguyên tử; nó không phải là một chuỗi.
Nó có đó và thế rồi nó không có đó. Bạn hoàn toàn tự do khỏi nó để đi vào cái
không biết. Bằng không người ta cứ đi theo đường mòn, tâm trí trở thành đường
mòn. Bạn cứ đi theo cùng vòng tròn, trong cái vòng luẩn quẩn. Bởi vì quá khứ
không bao giờ kết thúc, nó tới trong hiện tại. Nó cứ đi và xuyên vào tương lai.
Cho nên,
thực sự, tâm trí bộ phận, tâm trí ngoại vi, mang quá khứ - và quá khứ là thứ
lớn lao đấy! Cho dù bạn không xét tới các kiếp sống quá khứ, cho dù thế, quá
khứ vẫn là thứ lớn lao. Kinh nghiệm của năm mươi năm, đẹp và xấu, nhưng không
kết thúc - mọi thứ đều không kết thúc, cho nên bạn cứ mang quá khứ năm mươi năm
dài, cái đã chết. Quá khứ chết này sẽ rơi vào từng khoảnh khắc của hiện tại -
nó nhất định giết chết hiện tại!
Cho nên
bạn không thể sống được, điều đó là không thể được. Với quá khứ này đè lên bạn,
bạn không thể sống được - từng khoảnh khắc đều tươi tắn thế và tinh tế thế,
toàn thể trọng lượng chết này sẽ giết chết nó. Nó đang giết đấy! Quá khứ của
bạn cứ giết chết hiện tại của bạn, và khi hiện tại chết đi, nó trở thành một
phần của gánh nặng. Khi nó sống động, nó không phải là một phần của bạn - khi
nó trở thành chết, khi nó đã bị quá khứ chết của bạn giết, thế thì nó trở thành
của bạn, thế thì nó là một phần của bạn. Đây là tình huống.
Khoảnh
khắc bạn bắt đầu hành động từ trung tâm, mọi hành động đều toàn bộ, nguyên tử.
Nó có đó và thế rồi nó không có đó. Bạn hoàn toàn tự do khỏi nó. Thế thì bạn có
thể đi mà không có gánh nặng nào - không nặng gánh. Và chỉ thế thì bạn mới có
thể sống trong khoảnh khắc mới mà bao giờ cũng có đó, bằng việc đi tới nó tươi
tắn. Nhưng bạn có thể tới nó tươi tắn chỉ khi không có quá khứ phải mang theo.
Và bạn sẽ
phải mang quá khứ nếu nó không được kết thúc - tâm trí có xu hướng kết thúc mọi
thứ. Nếu nó không được kết thúc, thế thì nó phải được mang theo. Nếu cái gì đó
vẫn còn không được kết thúc trong ngày, thế thì bạn sẽ mơ về nó trong đêm, bởi
vì tâm trí có xu hướng kết thúc mọi thứ. Khoảnh khắc nó được kết thúc, tâm trí
được nhẹ gánh khỏi nó. Chừng nào nó chưa được kết thúc, tâm trí nhất định quay
đi quay lại tới nó.
Bất kì
điều gì bạn làm - tình yêu của bạn, dục của bạn, tình bạn của bạn - mọi thứ đều
không kết thúc. Và bạn không thể làm nó thành toàn bộ được nếu bạn vẫn còn ở
ngoại vi. Cho nên làm sao được định tâm vào người ta? Làm sao đạt tới việc định
tâm này để cho bạn không ở trên ngoại vi? Chứng kiến là kĩ thuật.
Từ chứng
kiến này là từ có ý nghĩa nhất. Có hàng trăm kĩ thuật để đạt tới việc định tâm,
nhưng chứng kiến nhất định là một phần, phần cơ bản, trong mọi kĩ thuật. Kĩ
thuật có thể là bất kì cái gì, chứng kiến sẽ là phần bản chất trong nó. Cho nên
tốt hơn cả gọi nó là kĩ thuật của tất cả các kĩ thuật. Nó không đơn giản là kĩ
thuật; quá trình chứng kiến là phần bản chất của tất cả các kĩ thuật.
Người ta
cũng có thể nói về chứng kiến như một kĩ thuật thuần khiết. Chẳng hạn, J.
Krishnamurti - ông ấy nói về chứng kiến như một kĩ thuật thuần khiết. Nhưng
việc nói đó chỉ giống như nói về tâm linh mà không có thân thể. Bạn không thể
cảm thấy nó được, bạn không thể thấy nó được. Mọi nơi tâm linh đều được hiện
thân - bạn có thể cảm thấy tâm linh thông qua thân thể. Tất nhiên tâm linh
không phải là thân thể, nhưng bạn có thể cảm thấy nó qua thân thể. Mọi kĩ thuật
đều chỉ là thân thể, và chứng kiến mới là linh hồn. Bạn có thể nói về chứng
kiến độc lập với bất kì thân thể nào, vật chất nào; thế thì nó trở thành trừu
tượng, trừu tượng toàn bộ. Cho nên Krishnamurti đã từng nói liên tục trong nửa
thế kỉ, nhưng bất kì điều gì ông ấy nói cũng đều thuần khiết, không hiện thân,
tới mức người ta nghĩ rằng người ta hiểu nhưng việc hiểu đó vẫn còn chỉ là một
khái niệm.
Trong thế
giới này chẳng cái gì tồn tại như tâm linh thuần khiết cả. Mọi thứ đều tồn tại
dưới dạng hiện thân. Chứng kiến là tâm linh của mọi kĩ thuật tâm linh, và tất
cả các kĩ thuật đều là thân, các thân khác nhau.
Cho nên
trước hết chúng ta phải hiểu chứng kiến là gì, và thế rồi chúng ta có thể hiểu
việc chứng kiến qua thân nào đó, kĩ thuật nào đó.
Chúng ta
biết suy nghĩ, và người ta phải bắt đầu từ suy nghĩ để biết chứng kiến ngụ ý gì
bởi vì người ta phải bắt đầu từ điều người ta biết. Chúng ta biết suy nghĩ -
suy nghĩ nghĩa là phán xét; bạn thấy cái gì đó và bạn phán xét. Bạn thấy bông
hoa và bạn nói nó đẹp hay không đẹp. Bạn nghe bài ca và bạn ca ngợi nó hay bạn
không ca ngợi nó. Bạn ca ngợi cái gì đó hay bạn kết án cái gì đó. Suy nghĩ là
phán xét - khoảnh khắc bạn nghĩ, bạn đã bắt đầu phán xét.
Suy nghĩ
là đánh giá. Bạn không thể nghĩ mà không đánh giá. Làm sao bạn có thể nghĩ về
bông hoa mà không đánh giá nó? Khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ, bạn sẽ nói nó đẹp
hay không đẹp. Bạn sẽ phải dùng phân loại nào đó bởi vì suy nghĩ là phân loại.
Khoảnh khắc bạn đã phân loại một thứ - dán nhãn nó, đặt tên nó - bạn đã nghĩ về
nó rồi.
Suy nghĩ
là không thể được nếu bạn không định phán xét. Nếu bạn không định phán xét, thế
thì bạn có thể vẫn còn nhận biết - nhưng bạn không thể suy nghĩ.
Bông hoa
có đó, và tôi nói với bạn, "Thấy nó, nhưng đừng nghĩ. Nhìn hoa nhưng đừng
nghĩ." Vậy bạn có thể làm được gì? Nếu suy nghĩ mà không được phép, bạn có
thể làm gì? Bạn chỉ có thể chứng kiến; bạn chỉ có thể nhận biết. Bạn chỉ có thể
ý thức về bông hoa. Bạn có thể đối diện với sự kiện này - bông hoa đang ở đây.
Bây giờ bạn có thể đương đầu với nó. Nếu suy nghĩ mà không được phép, bạn không
thể nói, "Nó đẹp. Nó không đẹp. Tôi biết về nó," hay "Nó thật lạ
- tôi chưa bao giờ thấy nó." Bạn không thể nói gì được cả. Lời không thể
được dùng bởi vì mọi lời đều mang giá trị trong nó. Mọi lời đều là phán xét.
Ngôn ngữ bị nặng gánh với phán xét; ngôn ngữ không bao giờ có thể vô tư được.
Khoảnh khắc bạn dùng lời, bạn đã phán xét rồi.
Cho nên
bạn không thể dùng ngôn ngữ được, bạn không thể nói thành lời được. Nếu tôi
nói, "Đây là bông hoa - nhìn nó, nhưng đừng nghĩ," thế thì việc nói
thành không được phép. Vậy bạn có thể làm gì? Bạn chỉ có thể là nhân chứng. Nếu
bạn có đó mà không suy nghĩ, chỉ đối diện với cái gì đó, đó là việc chứng kiến.
Thế thì chứng kiến nghĩa là nhận biết thụ động. Nhớ lấy - thụ động. Suy nghĩ là
tích cực, bạn đang làm cái gì đó. Bất kì cái gì bạn đang thấy, bạn đang làm cái
gì đó với nó. Bạn không thụ động, bạn không giống như tấm gương - bạn đang làm
cái gì đó. Và khoảnh khắc bạn làm cái gì đó, bạn đã thay đổi cái đó rồi.
Tôi thấy
bông hoa và tôi nói, "Nó đẹp quá!" - tôi đã thay đổi nó rồi. Bây giờ
tôi đã áp đặt cái gì đó lên bông hoa này. Bây giờ, dù hoa là bất kì cái gì, với
tôi nó là bông hoa cộng với cảm giác của tôi về cái đẹp của nó. Bây giờ bông
hoa ở xa xăm rồi; giữa bông hoa và tôi là cảm giác phán xét của tôi, đánh giá
của tôi về việc đẹp. Bây giờ bông hoa không còn như cũ với tôi nữa, phẩm chất
đã thay đổi. Tôi đã đi vào trong nó - bây giờ phán xét của tôi đã xuyên thấu
vào trong sự kiện này. Bây giờ nó giống nhiều với hư cấu hơn ít giống như sự
kiện.
Cảm giác
này rằng bông hoa đẹp không thuộc về bông hoa, nó thuộc về tôi. Tôi đã đi vào
sự kiện này. Bây giờ sự kiện này không còn trinh nguyên nữa, tôi đã làm biến
chất nó. Bây giờ tâm trí tôi đã trở thành một phần của nó. Thực sự, nói rằng
tâm trí tôi đã trở thành một phần của nó nghĩa là quá khứ của tôi đã trở thành
một phần của nó, bởi vì khi tôi nói, "Bông hoa này đẹp," điều đó ngụ
ý tôi đã phán xét nó qua tri thức quá khứ của mình. Làm sao bạn có thể nói rằng
bông hoa này là đẹp được? Kinh nghiệm của bạn về quá khứ, quan niệm của bạn về
quá khứ, rằng cái gì đó giống thế này là đẹp - bạn đã phán xét nó theo quá khứ
của mình.
Tâm trí
nghĩa là quá khứ của bạn, kí ức của bạn. Quá khứ đã bước vào hiện tại. Bạn đã
phá huỷ sự kiện trinh nguyên; bây giờ nó bị bóp méo. Bây giờ không có bông hoa
- bông hoa như thực tại trong bản thân nó không còn đó. Nó đã bị biến chất bởi
bạn, bị phá huỷ bởi bạn; quá khứ của bạn đã bước vào giữa. Bạn đã diễn giải -
đây là suy nghĩ đấy. Suy nghĩ nghĩa là đem quá khứ vào sự kiện hiện tại.
Đó là lí
do tại sao suy nghĩ không bao giờ dẫn bạn tới chân lí - bởi vì chân lí là trinh
nguyên và phải được đối diện trong tính trinh nguyên toàn bộ của nó. Khoảnh
khắc bạn mang quá khứ của mình vào, bạn đang phá huỷ nó. Thế thì đó là diễn
giải, không phải là nhận ra sự kiện. Bạn đã phá vỡ nó; thuần khiết bị mất.
Suy nghĩ
nghĩa là đem quá khứ của bạn vào hiện tại. Chứng kiến nghĩa là không quá khứ,
chỉ hiện tại - không đem quá khứ vào.
Chứng
kiến mang tính thụ động. Bạn không đang làm cái gì cả - bạn hiện hữu! Đơn giản,
bạn có đó. Chỉ bạn hiện hữu. Bông hoa hiện diện, bạn hiện diện - thế thì có mối
quan hệ của việc chứng kiến. Khi bông hoa hiện diện và toàn thể quá khứ của bạn
hiện diện, không phải bạn, thế thì đó là mối quan hệ của suy nghĩ.
Cho nên
bắt đầu từ suy nghĩ. Suy nghĩ là gì? Nó là việc bắc cầu của tâm trí vào hiện
tại. Vậy thì bạn đã bỏ lỡ hiện tại rồi - bạn đã bỏ lỡ nó toàn bộ! Khoảnh khắc
quá khứ thấm vào trong hiện tại, bạn đã bỏ lỡ nó. Khi bạn nói, "Bông hoa
này đẹp," thực sự nó đã trở thành quá khứ rồi. Khi bạn nói, "Bông hoa
này đẹp," nó là kinh nghiệm quá khứ. Bạn đã biết, bạn đã phán xét.
Khi bông
hoa có đó và bạn có đó, ngay cả nói rằng bông hoa này đẹp cũng là không thể
được. Bạn không thể khẳng định bất kì phán xét nào trong hiện tại. Bất kì phán
xét nào, bất kì khẳng định nào, đều thuộc vào quá khứ. Nếu tôi nói, "Tôi
yêu bạn," nó đã trở thành một thứ của quá khứ. Nếu tôi nói, "Bông hoa
này đẹp," tôi đã cảm thấy, tôi đã phán xét rồi - nó đã trở thành quá khứ.
Chứng
kiến bao giờ cũng là hiện tại, không bao giờ là quá khứ. Suy nghĩ bao giờ cũng
là quá khứ. Suy nghĩ là chết, chứng kiến là sống. Cho nên phân biệt tiếp... Thứ
nhất, suy nghĩ là tích cực, là làm cái gì đó. Chứng kiến là thụ động, không
làm, chỉ hiện hữu. Suy nghĩ bao giờ cũng là quá khứ, cái chết, cái đã qua rồi,
cái không còn nữa. Chứng kiến bao giờ cũng là hiện tại - cái đang đó.
Cho nên
nếu bạn cứ nghĩ, bạn không bao giờ có thể biết được chứng kiến là gì. Dừng lại,
chấm dứt suy nghĩ, trở thành điểm bắt đầu trong chứng kiến. Dừng suy nghĩ là
chứng kiến.
Vậy phải
làm gì? - bởi vì suy nghĩ là thói quen lâu dài với chúng ta. Nó trở thành giống
như rô bốt, thứ máy móc. Không phải là bạn nghĩ đâu; không phải là quyết định
của bạn bây giờ đâu, nó là thói quen máy móc đấy - bạn không thể làm gì khác
được. Khoảnh khắc bông hoa có đó, suy nghĩ đã bắt đầu rồi. Chúng ta không có
kinh nghiệm vô lời; chỉ trẻ nhỏ mới có. Kinh nghiệm vô lời mới thực sự là kinh
nghiệm. Nói ra lời là thoát khỏi kinh nghiệm.
Khi tôi
nói, "Bông hoa đẹp," bông hoa đã tan biến khỏi tôi rồi. Bây giờ chính
là tâm trí tôi, không phải bông hoa, mà tôi đang quan tâm tới. Bây giờ nó là
hình ảnh của bông hoa trong tâm trí tôi, không phải là bản thân bông hoa. Bây
giờ bản thân bông hoa là bức tranh trong tâm trí, một ý nghĩ trong tâm trí, và
bây giờ tôi có thể so sánh với kinh nghiệm quá khứ của mình và phán xét. Nhưng
bông hoa không còn đó nữa.
Khi bạn
nói ra lời, bạn bị khép lại với kinh nghiệm. Khi bạn nhận biết vô lời, bạn mở,
mong manh. Chứng kiến nghĩa là việc mở thường xuyên cho kinh nghiệm, không
đóng.
Phải làm
gì? Thói quen máy móc này của cái gọi là suy nghĩ phải bị phá vỡ ở đâu đó. Cho
nên bất kì điều gì bạn đang làm, cố gắng làm nó một cách vô lời. Điều đó là
khó, gian nan, và ngay lúc đầu điều đó dường như tuyệt đối không thể được,
nhưng nó không phải vậy. Nó không phải là điều không thể được - nó khó. Bạn
đang bước đi trên phố - bước đi một cách vô lời. Chỉ bước, thậm chí trong vài
giây thôi, và bạn sẽ có thoáng nhìn về một thế giới khác - thế giới vô lời, thế
giới thực, không phải là thế giới của tâm trí mà con người đã tạo ra trong bản
thân mình.
Bạn đang
ăn - ăn một cách vô lời. Ai đó hỏi Bokuju - Bokuju là một Thiền sư lớn -
"Con đường của ông là gì, đạo của ông là gì?"
Thế là
Bokuju nói, "Đạo của ta rất đơn giản: khi ta đói, ta ăn; khi ta buồn ngủ,
ta ngủ - và có vậy thôi."
Người này
đâm ra phân vân. Người đó nói, "Ông nói gì vậy? Tôi cũng ăn và tôi cũng
ngủ, và mọi người đều làm cùng việc đó. Vậy cái gì có trong đó mà ông gọi nó là
đạo?"
Bokuju
nói, "Khi ông ăn, ông đang làm nhiều điều, không chỉ ăn. Và khi ông ngủ,
ông làm mọi thứ khác ngoại trừ việc ngủ. Nhưng khi ta ăn, ta đơn giản ăn; khi
ta ngủ, ta đơn giản ngủ. Mọi hành động đều toàn bộ."
Mọi hành
động trở thành toàn bộ nếu bạn vô lời. Cho nên thử ăn mà không nói lời nào
trong tâm trí, không suy nghĩ trong tâm trí. Chỉ ăn thôi, và thế thì việc ăn
trở thành thiền - bởi vì nếu bạn không nói, bạn sẽ trở thành nhân chứng.
Nếu bạn
nói, bạn sẽ trở thành nhà tư tưởng. Nếu bạn không nói, bạn không thể làm gì về
nó được, bạn không thể giúp nó được - bạn sẽ là nhân chứng, một cách tự động.
Cho nên cố gắng làm bất kì cái gì một cách vô lời: đi, ăn, tắm, hay chỉ ngồi im
lặng. Thế rồi ngồi - thế rồi là "việc ngồi." Đừng nghĩ. Thế thì chỉ
việc ngồi thôi cũng có thể trở thành thiền; chỉ việc bước cũng có thể trở thành
thiền.
Ai đó
khác hỏi Bokuju, "Xin thầy cho tôi kĩ thuật thiền nào đó."
Bokuju
nói, "Ta có thể cho ông một kĩ thuật, nhưng ông sẽ không có khả năng thiền
đâu - bởi vì ông có thể công phu kĩ thuật với tâm trí cứ nói hoài." Ngón
tay bạn có thể lần tràng hạt và bạn có thể cứ nghĩ. Nếu ngón tay bạn chỉ chuyển
trên tràng hạt mà không suy nghĩ, điều đó trở thành thiền. Thế thì, thực sự,
chẳng cần tới kĩ thuật nào cả. Toàn thể cuộc sống là kĩ thuật rồi. Cho nên
Bokuju nói, "Sẽ tốt hơn nếu ông có thể sống cùng ta và quan sát ta. Đừng
hỏi về phương pháp, quan sát ta và ông sẽ đi tới biết."
Anh chàng
đáng thương này đã quan sát trong bẩy ngày. Anh ta bắt đầu bị lẫn lộn hơn. Sau
bẩy ngày anh ta nói, "Khi tôi tới, tôi còn ít lẫn lộn. Bây giờ tôi bị lẫn
lộn hơn. Tôi đã quan sát thầy trong bẩy ngày liên tục - cái gì có đó để mà được
quan sát?"
Bokuju
nói, "Thế thì ông đã không quan sát rồi. Khi ta bước, ông có thấy không? -
ta đơn giản bước. Khi ông đem trà tới vào buổi sáng cho ta, ông có quan sát
không? - ta đơn giản nhận trà và uống nó - chỉ việc uống. Không có Bokuju - chỉ
có việc uống. Không Bokuju nào cả - chỉ là việc uống trà. Ông có quan sát
không? Nếu ông đã quan sát, thế thì ông phải đã cảm thấy rằng Bokuju không còn
nữa."
Đây là
điểm tinh tế - bởi vì nếu người nghĩ có đó, thế thì có bản ngã; thế thì bạn là
Bokuju hay ai đó khác. Nhưng nếu chỉ hành động có đó mà không nói ra lời, không
suy nghĩ, thì không có bản ngã. Cho nên Bokuju nói, "Ông có thực sự quan
sát không? Thế thì không có Bokuju đâu - chỉ có việc uống trà, đi dạo trong
vườn, đào hố dưới đất."
Phật, bởi
vì điều này, đã nói không có linh hồn. Bởi vì bạn đã không quan sát, bạn cứ
liên tục nghĩ rằng bạn có linh hồn. Bạn không có đâu! Nếu bạn là nhân chứng,
thế thì bạn không có. Cái "tôi" tạo nên bản thân nó qua ý nghĩ.
Cho nên
một điều thêm nữa: ý nghĩ tích luỹ, kí ức chồng chất, tạo ra cảm giác về bản
ngã, rằng bạn có đấy.
Thử thực
nghiệm này: cắt bỏ toàn thể quá khứ của bạn khỏi bạn đi - không kí ức. Bạn
không biết cha mẹ mình là ai, bạn không biết mình thuộc về ai - vào nước nào,
vào tôn giáo nào, vào giống nòi nào. Bạn không biết bạn đã được giáo dục ở đâu,
liệu bạn có được giáo dục hay không. Cắt đi toàn bộ quá khứ - và nhớ bạn là ai.
Bạn không
thể nhớ được bạn là ai! Hiển nhiên bạn hiện hữu. Bạn có đấy, nhưng bạn là ai?
Trong khoảnh khắc này, bạn không thể cảm thấy cái "tôi".
Bản ngã
chỉ là quá khứ được tích luỹ. Bản ngã là ý nghĩ của bạn được cô đọng, được kết
tinh.
Cho nên
Bokuju nói, "Nếu ông đã quan sát ta, ta không có. Có việc uống trà, nhưng
không có người uống. Việc bước đi có đó trong vườn, nhưng không có người bước.
Hành động có đó, nhưng không có người hành động."
Trong
chứng kiến, không có cảm giác về "tôi" - trong suy nghĩ thì có. Cho
nên nếu cái gọi là nhà tư tưởng được bắt rễ sâu thế trong bản ngã của họ, điều
đó không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nghệ sĩ, nhà tư tưởng, triết gia,
những người có học - nếu họ có bản ngã thế, điều đó không phải là sự trùng hợp
ngẫu nhiên. Bạn càng có nhiều ý nghĩ, bạn càng có bản ngã mạnh hơn.
Trong
chứng kiến không có bản ngã - nhưng điều này tới chỉ nếu bạn có thể siêu việt
trên ngôn ngữ. Ngôn ngữ là rào chắn. Ngôn ngữ được cần tới để trao đổi với
người khác; nó không được cần tới để trao đổi với bản thân người ta. Nó là công
cụ có ích - còn hơn thế, nó là công cụ có ích nhất. Con người có thể tạo ra xã
hội, thế giới, chỉ bởi vì ngôn ngữ. Nhưng bởi vì ngôn ngữ, con người đã quên
mất bản thân mình.
Ngôn ngữ
là thế giới của chúng ta. Nếu trong một khoảnh khắc thôi con người quên mất
ngôn ngữ, thế thì cái gì còn lại? Văn hoá, xã hội, Hindu giáo, Ki tô giáo, cộng
sản - cái gì còn lại? Chẳng cái gì còn lại cả. Nếu duy nhất ngôn ngữ được lấy
ra khỏi sự tồn tại, toàn thể nhân loại với văn hoá, văn minh, khoa học, tôn
giáo, triết học, biến mất.
Ngôn ngữ
là việc trao đổi với người khác; nó là việc trao đổi duy nhất. Nó hữu dụng,
nhưng nó nguy hiểm - và bất kì khi nào công cụ nào đó hữu dụng, nó đều có cùng
tỉ lệ nguy hiểm nữa. Nguy hiểm là thế này, rằng tâm trí càng đi vào trong ngôn
ngữ, nó càng đi xa hơn khỏi trung tâm. Cho nên người ta cần cân bằng tinh tế và
làm chủ tinh tế để có khả năng đi vào trong ngôn ngữ và cũng có khả năng bỏ lại
ngôn ngữ, đi ra khỏi ngôn ngữ.
Chứng
kiến nghĩa là đi ra khỏi ngôn ngữ, việc nói, tâm trí.
Chứng
kiến nghĩa là trạng thái của vô trí, vô suy nghĩ.
Cho nên
cố gắng điều đó đi! Nó là nỗ lực lâu dài, và không gì dự đoán được cả - nhưng
cố gắng, và nỗ lực sẽ cho bạn những khoảnh khắc nào đó khi bỗng nhiên ngôn ngữ
biến mất. Và thế thì một chiều hướng mới mở ra. Bạn trở nên nhận biết về một
thế giới khác - thế giới của sự đồng thời, thế giới của ở đây và bây giờ, thế
giới của vô trí, thế giới của thực tại.
Ngôn ngữ
phải bay hơi. Cho nên cố gắng làm những hành động bình thường, các chuyển động
thân thể, không ngôn ngữ. Phật đã dùng kĩ thuật này để quan sát hơi thở. Ông ấy
sẽ nói với các đệ tử, "Cứ quan sát hơi thở. Đừng làm điều gì cả: chỉ quan
sát hơi thở đi vào, hơi thở đi ra, hơi thở đi vào, hơi thở đi ra." Nó
không nên được nói như thế này, nó nên được cảm thấy - hơi thở đi vào, không
lời. Cảm thấy hơi thở đi vào, đi cùng hơi thở này, để cho tâm thức của bạn đi
sâu với hơi thở này. Thế rồi để nó đi ra. Cứ đi cùng hơi thở của bạn. Tỉnh táo!
Phật
tương truyền đã nói, "Đừng bỏ lỡ thậm chí một hơi thở. Nếu một hơi thở bị
bỏ lỡ về mặt sinh lí, ông sẽ chết, và nếu một hơi thở bị bỏ lỡ trong nhận biết,
ông sẽ bỏ lỡ trung tâm, ông sẽ chết bên trong." Cho nên Phật nói,
"Hơi thở là bản chất cho cuộc sống của thân thể, và nhận biết về hơi thở
là bản chất cho cuộc sống của trung tâm bên trong."
Thở, nhận
biết đi. Và nếu bạn cố gắng để nhận biết về hơi thở của mình, bạn không thể
nghĩ được, bởi vì tâm trí không thể làm hai điều đồng thời - suy nghĩ và chứng
kiến. Chính hiện tượng chứng kiến là tuyệt đối đối lập với suy nghĩ, cho nên
bạn không thể làm được cả hai. Cũng như bạn không thể là cả hai sống và chết,
như bạn không thể là cả hai suy nghĩ và chứng kiến. Chứng kiến bất kì cái gì,
và suy nghĩ sẽ dừng lại. Suy nghĩ bước vào, và chứng kiến biến mất.
Chứng
kiến là nhận biết thụ động, không hành động bên trong. Bản thân nhận biết không
phải là hành động.
Một hôm
Mulla Nasruddin lo lắng rất nhiều, suy nghĩ ủ ê sâu sắc. Bất kì ai nhìn mặt anh
ta đều cảm thấy rằng anh ta đã lạc đi đâu đó trong các ý nghĩ, rất căng thẳng,
trong khổ não. Vợ anh ta trở nên hoảng sợ. Cô ấy hỏi, "Anh làm gì thế,
Nasruddin? Anh nghĩ gì vậy? Vấn đề là gì, sao anh lo lắng thế?"
Mulla mở
mắt ra và nói, "Đây là vấn đề tối thượng. Anh đang nghĩ về làm sao người
ta biết khi nào người ta chết. Làm sao người ta biết rằng người ta chết? Nếu
anh mà chết, làm sao anh sẽ nhận ra rằng anh chết? - bởi vì anh đã không biết
tới cái chết. Nhận ra nghĩa là em đã biết cái gì đó trước đó.
"Anh
thấy em và nhận ra rằng em là A, hay B hay C, bởi vì anh đã biết em. Cái chết
anh đã không biết," Mulla nói. "Và khi nó tới, làm sao anh nhận ra
nó? Đó mới là vấn đề, và anh lo lắm. Và khi anh chết, anh không thể hỏi bất kì
ai khác, cho nên cánh cửa đó cũng bị đóng lại. Anh không thể tham khảo kinh
sách nào đó, chẳng thầy nào có thể giúp gì."
Cô vợ
cười và nói, "Anh lo không cần thiết. Khi cái chết tới, người ta biết ngay
lập tức. Khi cái chết tới với anh, anh sẽ biết bởi vì anh sẽ trở nên lạnh, lạnh
như băng." Mulla được nhẹ bớt - một dấu hiệu chắc chắn, chìa khoá, đã
trong tay anh ta.
Sau hai
hay ba tháng anh ta chặt củi trong rừng. Lúc đó là sáng mùa đông và mọi thứ đều
lạnh. Bỗng nhiên anh ta nhớ ra, và anh ta cảm thấy tay mình - chúng lạnh. Anh
ta nói, "Được rồi! Bây giờ cái chết đang tới, và mình ở xa nhà tới mức
mình thậm chí không thể thông báo được cho ai cả. Bây giờ mình sẽ làm gì đây?
Mình quên mất không hỏi vợ. Cô ấy bảo mình cách người ta sẽ cảm thấy, nhưng
người ta làm gì khi cái chết tới? Bây giờ chẳng ai ở đây cả, và mọi thứ sắp
lạnh cóng cả rồi."
Thế rồi
anh ta nhớ ra. Anh ta đã thấy nhiều người chết, cho nên anh ta nghĩ, "Nằm
ra là tốt." Đó là tất cả những gì anh ta đã thấy người chết làm, thế là
anh ta nằm ra. Tất nhiên, anh ta trở nên lạnh hơn, anh ta cảm thấy lạnh hơn -
cái chết đang trên anh ta. Con lừa của anh ta đang nghỉ cạnh anh ta dưới cái
cây. Hai con sói, cứ tưởng rằng Mulla chết rồi, tấn công con lừa của anh ta.
Mulla mở mắt ra và thấy, và anh ta nghĩ, "Người chết không thể làm được gì
cả. Giá mà mình còn sống, này sói, mày không thể được tự do thế với lừa của tao
đâu. Nhưng bây giờ mình không thể làm gì được cả. Chưa bao giờ có chuyện người
chết làm cái gì cả. Mình chỉ có thể là nhân chứng."
Nếu bạn
trở nên chết với quá khứ của mình, chết toàn bộ, thế thì bạn chỉ có thể chứng
kiến thôi. Bạn còn có thể làm cái gì khác được? Chứng kiến nghĩa là trở thành
chết với quá khứ của bạn - kí ức, ý nghĩ, mọi thứ. Thế thì trong khoảnh khắc
hiện tại, bạn có thể làm gì? Bạn chỉ có thể chứng kiến. Không phán xét nào là
có thể - phán xét là có thể chỉ trong so sánh với kinh nghiệm quá khứ. Không
đánh giá nào là có thể - đánh giá là có thể chỉ trong so sánh với đánh giá quá
khứ. Không suy nghĩ nào là có thể - suy nghĩ là có thể chỉ nếu quá khứ có đó,
được đem vào hiện tại. Cho nên bạn có thể làm được gì? Bạn có thể chứng kiến.
Trong văn
đàn chữ Phạn cổ, thầy giáo được định nghĩa là cái chết - acharya mrityuh. Trong
Katha Upanishad, Nachiketa được gửi tới Yama, thần chết, để được dạy. Và khi
Yama, thần chết, đưa ra nhiều, nhiều cám dỗ cho Nachiketa - "Lấy cái này
đi, lấy vương quốc, lấy nhiều của cải, nhiều ngựa vào, nhiều voi, cái này và
cái này," một danh sách dài các thứ - Nachiketa nói, "Tôi đã tới đây
để học cái chết là gì, bởi vì chừng nào tôi còn chưa biết cái chết là gì, tôi
không thể biết cuộc sống là gì."
Cho nên
thầy giáo được biết tới vào thời xưa là người có thể trở thành cái chết cho đệ
tử - người có thể giúp bạn chết đi để bạn có thể được tái sinh. Nicodemus đã
hỏi Jesus, "Làm sao tôi có thể đạt tới vương quốc của Thượng đế?"
Jesus nói, "Chừng nào ông còn chưa chết đi trước hết, chẳng cái gì có thể
được đạt tới. Chừng nào ông còn chưa được tái sinh, chẳng cái gì có thể được
đạt tới."
Và việc
tái sinh này không phải là biến cố, nó là quá trình liên tục. Người ta phải
được tái sinh mọi khoảnh khắc. Không phải là bạn được tái sinh một lần và thế
thì nó là được và kết thúc. Cuộc sống là việc sinh liên tục, và cái chết cũng
là liên tục. Bạn phải chết đi một lần bởi vì bạn đã không sống chút nào. Nếu
bạn sống, thế thì bạn sẽ phải chết đi từng khoảnh khắc. Chết đi mọi khoảnh khắc
cho quá khứ bất kì cái gì nó đã từng là, thiên đường hay địa ngục. Bất kì cái
gì - chết nó đi, và tươi tắn và trẻ trung và tái sinh trong khoảnh khắc. Chứng
kiến bây giờ - và bạn chỉ có thể chứng kiến bây giờ nếu bạn tươi tắn.